"Để làm đẹp hiệu quả, Bạn không thể phó thác tất cả vào số tiền mình sẵn lòng chi ra mà còn tùy thuộc vào mức độ hiểu biết về làn da riêng của Bạn và nổ lực của mình cho mong muốn đó."
Alpha-hydroxy acid: (AHA) tên gọi chung của một nhóm các acid tự nhiên, hay được gọi là “acid trái cây”. AHA được sử dụng trong các sản phẩm giữ ẩm, làm mềm và tẩy tế bào chết cho da, thay da hóa học.
AHA làm nới lỏng liên kết mặt ngoài của da, làm lớp này bong ra và thay mới. AHA cũng được dùng để điều trị các tổn thương do ánh nắng mặt trời, do tăng sắc tố hay bệnh eczema, bệnh vảy cá.
Lợi ích mà AHA mang lại phụ thuộc vào dạng và nồng độ AHA cũng như pH của công thức.
Các sản phẩm AHA trên thị trường thường bán cho người tiêu dùng có nồng độ 10% hoặc thấp hơn, bán cho các chuyên viên da liễu là 20 – 30%, còn được bác sĩ sử dụng có thể lên đến khoảng 50 – 70%.
AHA là các acid cacboxylic hữu cơ có một nhóm hydroxyl gắn vào vị trí alpha của nhóm cacboxyl trên phân tử béo hoặc alicyclic; nhóm hydroxyl trung tính về mặt hóa học và nhóm cacboxyl là nhóm thế có tính acid trên phân tử.
Nhiều loại AHA có trong thực phẩm và trái cây, do đó, AHA được đặt tên là acid trái cây. Các AHA được sử dụng phổ biến nhất bao gồm acid glycolic và acid lactic, Acid citric, một chất chống oxy hóa thuộc nhóm AHA được tìm thấy trong trái cây họ cam quýt, là một hydroxyacid đặc biệt vì nó chứa một nhóm hydroxyl đơn liên kết với ba nhóm chức acid cacboxylic ở cả vị trí alpha và beta, làm cho nó trở thành hydroxyacid alpha – beta.
Acid citric được tìm thấy tự nhiên trong da, nơi nó đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa của con người được gọi là chu trình Kreb’s (acid citric), để tạo ra năng lượng cho cơ thể con người. Một số AHA có chứa nhóm ích phenyl như một chuỗi thay thế làm thay đổi khả năng hòa tan của phần tử AHA, làm tăng tính ưa béo hơn so với các AHA tan trong nước thông thường. Những loại AHA này có thể được sử dụng cho da dầu và da bị mụn trứng cá. Ví dụ bao gồm acid mandelic (acid phenyl tay glycolic) và acid bezilic (acid diphenyl glycolic)
Cơ chế hoạt động AHA
Chống lão hóa trên tất cả các lớp của da, tẩy tế bào chết và tái tạo tế bào vượt trội, kích thích sinh tổng hợp lớp bì (GAGs, Colla-gen).
Tác dụng AHA trên da
Tác dụng của AHA bao gồm: giảm đường rãnh, nếp nhăn, làm mờ các vết tăng sắc tố, giúp da mềm mịn và dịu, phục hồi lớp sừng bằng cách loại bỏ các tế bào chết, tạo cấu trúc da bền vững, hoạt hóa acid hyaluronic, tăng khả năng giữ ẩm và dưỡng ẩm cho da…
Theo thống kê có 6 loại acid trái cây có trong thành phần của nhiều loại rau củ quả như acid glycolic (được tìm thấy trong mía), acid lactic (được tìm thấy trong sữa và nước ép cà chua), acid malic (có trong táo), acid tartric (trong nho và rượu) và acid citric (có trong chanh, dứa, cam và nhiều loại trái cây khác). Acid pyruvic cũng là một acid thuộc nhóm AHA. FDA có một mối quan tâm đặc biệt về AHA bởi vì khác với mỹ phẩm truyền thống, AHA có khả năng thâm nhập vào hàng rào da.
Khi xem xét các dữ liệu hạn chế về AHA, FDA đã kết luận trong một báo cáo năm 1996 rằng một số công thức nhất định của sản phẩm AHA có thể ảnh hưởng đến da theo cách tương tự như thay da hóa học tức là tăng tỷ lệ thay mới của tế bào và giảm độ dày của da. Mức độ tác động phụ thuộc vào pH của sản phẩm (đo lường độ acid), nồng độ AHA cũng như cách sử dụng sản phẩm (cả tần suất sử dụng và vị trí trên da).
Độ nhạy với ánh sáng mặt trời cũng là mối quan tâm của FDA theo báo cáo bổ sung năm 1996 về độ an toàn của nhóm hợp chất này. Một số người đã báo cáo phản ứng bất lợi dẫn đến tăng độ nhạy cảm với ánh nắng mặt trời. Một nghiên cứu khác đã xem xét tác động của acid glycolic làm tăng mức độ cháy nắng da, cho thấy những người sử dụng AHA khi tiếp xúc với tia cực tím có tổn thương tế bào gấp đôi so với những người được điều trị bằng sản phẩm không phải AHA.
Năm 1997, CIR kết luận rằng acid glyoolic, acid lactic của AHA cùng các hợp chất hóa học liên quan của chúng an toàn khi sử dụng trong các sản phẩm dành cho người tiêu dùng với nồng độ 10% hoặc thấp hơn.
Các công thức của acid glycolic hay acid lactic ở nồng độ 30% hoặc thấp hơn cũng như pH là 3,0 hoặc cao hơn chỉ để sử dụng “ngắn hạn” một lần, sau đỏ rửa sạch và chống nắng cẩn thẩn.
Mỗi nhà sản xuất sản phẩm AHA nên tiến hành thử nghiệm thích hợp trên sản phẩm để đo lường sản phẩm có làm tăng độ nhạy của người dùng với bức xạ tia cực tím hay không, và nếu có, cần thêm biện pháp chống nắng vào sản phẩm, đồng thời cảnh báo người tiêu dùng các bước bổ sung để tự bảo vệ mình mọi lúc.
Lợi ích của AHA
Tình trạng tăng sừng
Nhóm hợp chất AHA có tác dụng ngăn chặn quá trình tăng sừng bằng cách điều chỉnh sự gắn kết của tế bào sừng ở đáy của lớp sừng, dẫn đến hiệu ứng bong vảy đặc biệt khi so sánh với tác dụng không đặc hiệu của các tác nhân tiêu sừng truyền thống. Hiệu quả rõ ràng trên da dày sừng nặng, chẳng hạn như bệnh “vảy cá phiến mỏng”, được bội AHAs nồng độ cao tại chỗ có thể dẫn đến bong vảy rõ rệt và giúp da có kết cấu bình thường chỉ sau vài ngày.
AHA cũng có thể được sử dụng để làm bong vảy các mảng vảy nến. Một nghiên cứu về hiệu quả bong vảy tối ưu của kem chứa hỗn hợp 20% AHA / PHA sau một tuần sử dụng hai lần mỗi ngày, và kết quả vượt trội về mặt thống kê so với việc sử dụng acid salicylic 6%.
AHA có thể được ưu tiên dùng làm chất giúp bong vảy tốt hơn acid salicylic do khả năng làm tăng các thành phần chất nền lớp bì và chống lại sự mỏng da do corticosteroid gây ra.
Trong khi, acid salicylic đã được chứng minh là gây mỏng da. Việc sử dụng AHA cho da khô thường không gây ra tác dụng tẩy da chết rõ ràng. Tình trạng da khô có thể tạm thời thuyền giảm nhờ cung cấp nước bên ngoài, chất cấp ẩm và khóa ẩm thoa, thông qua quá trình hydrat hóa, cho phép các enzym của da hoạt động bình thường và thúc đẩy bình thường hóa quá trình bong vảy.
Tuy nhiên, tình trạng da khô sẽ kéo dài nếu lớp sừng và hàng rào bảo vệ da không được hình thành đúng cách. AHA đã được chứng minh là làm tăng ceramides trong lớp sừng, do đó tăng cường chức năng hàng rào bảo vệ da.
PHA và BA là các hợp chất cấp ẩm mạnh đã được chứng minh là làm tăng chức năng hàng rào bảo vệ da và có thể được sử dụng để điều trị bệnh chàm một phần thông qua quá trình acid hóa nhẹ nhàng lớp sừng.
Tẩy da chết có thể được đánh giá bằng cách sử dụng mô hình luân chuyển tế bào dansyl clorua, đo lường trực quan sự biến mất của các tế bào da cằn cỗi theo thời gian. Acid glycolic được coi là tiêu chuẩn vàng trong mô hình này.
Khi PHA, gluconolactone và BAs, acid maltobionic và acid lactobionic, được thử nghiệm bằng cách sử dụng acid glycolic làm chất kiểm soát, chúng cho thấy khả năng làm tăng đáng kể quá trình tẩy da chết / thay đổi tế bào so với không được điều trị.
Tuy nhiên, mức độ của tác dụng không mạnh như những gì đã được quan sát thấy với acid glycolic, làm cho các chất tẩy tế bào chết PHA và BA được xem là nhẹ hơn. Tác dụng tẩy da chết nhẹ của PHA và BA kết hợp với tăng cường chức năng hàng rào, khả năng dưỡng ẩm và sự dịu nhẹ khiến chúng trở thành chất dưỡng ẩm lý tưởng cho các tình trạng da khô và nhạy cảm như bệnh vảy cá hay bệnh chàm.
Nếp nhăn, mất độ săn chắc
AHA thường được coi là chất tẩy tế bào chết, tuy nhiên, lợi ích của AHA còn vượt xa tác đụng đó.
Ví dụ, AHA đã được chứng minh là làm tăng sinh tổng hợp glycosaminoglycans và collagen ở lớp bì, đồng thời cải thiện chất lượng của các sợi đàn hồi. Đáng chú ý, acid glycolic đã được chứng minh là làm tăng sự phát triển của nguyên bào sợi và kích thích trực tiếp nguyên bào sợi sản xuất collagen in vivo và in vitro.
Ngoài ra, kích thích giản tiếp tổng hợp collagen xảy ra sau khi tế bào nguyên bào sợi tiếp xúc với các yếu tố được sản xuất bởi tế bào sừng biểu bì khi phản ứng với acid glycolic. Điều này cho thấy một hiệu ứng tín hiệu xảy ra giữa lớp biểu bì và lớp bì để phản ứng với acid glycolic, dẫn đến tái tạo chất nền lớp bì.
Acid citric cũng làm tăng đáng kể glycosaminoglycans bao gồm acid hyaluronic và proteoglycan, chondroitin sulfate lớp bì in vivo. Acid maltobionic và acid lactobionic (BAS) cũng đã được chứng minh là làm tăng tổng hợp acid hyaluronic trong cơ thể. Kích thích những thay đổi tế bào này dẫn đến hiệu ứng tăng thể tích giúp cải thiện các triệu chứng lão hóa, bao gồm cả sự xuất hiện của nếp nhăn mịn, rãnh nhăn và chùn nhão.
Các nghiên cứu lâm sàng với AHA, PHA và BA cho thấy những cải thiện rõ ràng ở vùng da có nếp nhăn, được đánh giá bởi các biện pháp khách quan khác nhau bao gồm: phân tích hình ảnh các bản sao silicone, đo độ dày da bằng thước đo kỹ thuật số và đánh giá mật độ da qua siêu âm. Việc sử dụng liên tục các hợp chất này dẫn đến độ dày của da tăng lên đáng kể so với bên không được điều trị và nhóm chứng. Trong vòng 12 tuần, có thể quan sát thấy hiệu ứng làm đầy đáng kể.
Tăng sắc tố
Tăng sắc tố da là một mối lo ngại đi kèm lão hóa toàn diện ảnh hưởng đến nhiều chủng tộc và sắc tộc. Tình trạng này biểu hiện dưới dạng các tổn thương tăng sắc tố thường kèm dày sừng như: đồi mồi, dày sừng tiết bã và dày sừng ánh sáng. Các dạng tăng sắc tố khác, chẳng hạn như nám da, có thể lan rộng hơn và bản chất thường không phải là tăng sừng.
Gần như tất cả các dạng tăng sắc tố đều liên quan đến việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời với tư cách là một yếu tố gây bệnh mặc dù một số sắc tố bị kích thích bởi các dạng khác nhau của phản ứng viêm (ví dụ như tăng sắc tố sau viêm). I Về mặt mổ học, AHA đã được chứng minh là làm giảm sự kết tụ của sắc tố trong lớp biểu bì.
Những phát hiện này đã được hỗ trợ trong các nghiên cứu lâm sàng với kết luận rằng các công thức chứa AHA thúc đẩy làn da đều màu hơn. BAS, acid maltobionic và acid lactobionic, làm bgiảm sản xuất melanin dù có mặt của hormone kích thích tế bào sắc tố (aMSH) trong mô hình in vitro sử dụng tế
bào melanoma B16.
Ngoài ra, PHA và BA là những tác nhân tạo phức kim loại rất hiệu quả, điều này có thể giải thích một phần hiệu ứng buổi tối của chúng trên da. Việc tạo phức với đồng được biết là can thiệp vào việc sản xuất enzyme tyrosinase chứa đồng, một loại enzyme thiết yếu trong việc sản xuất melanin.
AHA, PHA và BA có thể được kết hợp với hydroquinone hoặc mỹ phẩm làm sáng da để cung cấp các hiệu ứng bổ sung cho sắc tố vào buổi tối cũng như loại bỏ các tổn thương dày sừng. Hơn nữa, các đặc tính chống oxy hóa của PHAN và BA cũng giúp ổn định hydroquinone.
Tác dụng chống oxy hóa
PHA, gluconolactone và BA, acid maltobionic và acid lactobionic, thể hiện đặc tính chống oxy hóa. Gluconolactone đã được chứng minh là có thể ức chế quá trình hoạt hóa gốc tự do của gen gây hủy elastin trong mô hình in vitro gặp trong lão hóa ánh sáng.
Mô hình này đã được xác nhận bằng cách sử dụng các chất chống oxy hóa nổi tiếng khác như Vitamin C, Vitamin E, và gluconolactone cho thấy tác dụng chống oxy hóa tương đương. Các kết quả được cho là do sự tạo phức với kim loại xúc tiến quá trình oxy hóa và loại bỏ các gốc tự do.
Ngoài ra, trong khi acid glycolic có thể làm tăng tổn thương tế bào khi tiếp xúc với tia UVB vùng da không được bảo vệ, thì việc bôi gluconolactone tại chỗ không gây ra hiện tượng trên, điều này có thể do tác dụng chống oxy hóa của nó. Như đã mô tả trên, gluconolactone cũng có thể được pha chế với các loại thuốc oxy hóa, ví dụ, benzoyl peroxide, để giúp giảm khả năng kích ứng và ban đỏ.
Các BA làm giảm quá trình peroxy hóa lipid do tia cực tím gây ra trong mố hình được sử dụng để đánh giá khả năng chống oxy hóa, Quá trình peroxy hóa lipid do tia cực tím gây ra là quá trình oxy hóa phân hủy các acid béo không bão hòa đa, chẳng hạn như các acid béo được tìm thấy trong màng tế bào, bởi các gốc tự do được tạo ra trong quá trình tiếp xúc với tia UV. Các chất ức chế peroxy hóa lipid dọn dẹp các gốc hydroxyl, giúp duy trì màng tế bào và ty thể khỏe mạnh.
Ức chế MMP
Các enzym ma trận metalloproteinase (MMPs) là các enzym endopeptidase phụ thuộc vào kẽm làm phân hủy collagen trong da như một phần của quá trình tự nhiên của quá trình luân chuyển collagen tự nhiên của cơ thể.
Ở tuổi trẻ, quá trình dị hóa được cân bằng với tân tạo collagen, dẫn đến một nền da khỏe mạnh và biểu hiện của làn da trẻ trung. Với tuổi tác và tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, có sự thay đổi trong sự cân bằng thiên về sự dị hóa collagen, dẫn đến tình trạng rối loạn chức năng collagen và hình thành các nếp nhăn, giãn da và mất độ săn chắc của làn da. Các BA, acid lactobionic và acid maltobionic, hoạt động như chất ức chế MMP, có thể giúp duy trì các đặc tính trẻ trung của làn da.